Thận ứ nước ở thai nhi là dị tật bẩm sinh thường gặp nhất được phát hiện khi siêu âm. Đó là sự giãn nở bất thường của đường tiết niệu trong đó nguyên nhân phổ biến nhất là tắc nghẽn xương chậu.
Nội dung bài viết
Thận ứ nước ở thai nhi là như thế nào
Bất thường ở ống tiết niệu chiếm 20% của tất cả các dị tật bẩm sinh trong đó thận ứ nước ở thai nhi là dị thường phổ biến được phát hiện nhờ siêu âm thai kỳ. Tỷ lệ mắc bệnh dao động từ 2 – 5,5%. Bất thường nghiêm trọng đường tiết niệu xuất hiện trong 10% dị tật bẩm sinh gây tử vong
Ở hầu hết bệnh nhân, siêu âm có khả năng để phân biệt đường tiết niệu thai nhi bình thường với bất thường. Nghiên cứu chẩn đoán lựa chọn được xem xét cho việc theo dõi thận ứ nước trước và sau sinh.
Phần lớn các trường hợp thận ứ nước ở thai nhi không có ý nghĩa lâm sàng nên mối quan tâm quá mức về vấn đề này có thể dẫn đến các xét nghiệm không cần thiết của trẻ sơ sinh và lo lắng cho cha mẹ.
Mục tiêu của quản lý tiền sản là phát hiện những trường hợp thai nhi bị thận ứ nước có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của trẻ và yêu cầu được đánh giá cả trước và sau sinh. Bác sĩ sẽ xem xét tùy mức độ nặng nhẹ có thể can thiệp để giảm thiểu kết quả bất lợi, đồng thời hạn chế xét nghiệm.
Phân loại
Một số hệ thống đã được phát triển để chẩn đoán và phân loại mức độ nghiêm trọng của bệnh thận ứ nước ở thai nhi. Các hệ thống chấm điểm khác nhau dựa trên các tiêu chí siêu âm của thai nhi được sử dụng và bao gồm:
Đường kính vùng chậu thận
Phương pháp được chấp nhận rộng rãi nhất để xác định và phân loại thận ứ nước ở thai nhi là đo đường kính trước tối đa của khung chậu thận (APPD) trong mặt phẳng ngang, còn được gọi là RPD. Bệnh được phân loại theo RPD trong 3 tháng thứ 2 hoặc thứ 3 của thai kỳ
Một số nghiên cứu đã thiết lập các giá trị chuẩn cho kích thước thận của thai nhi dựa trên tuổi thai. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu sự đồng thuận về ngưỡng RPD xác định thận ứ nước thai nhi có ý nghĩa lâm sàng, đòi hỏi phải theo dõi sau sinh và có khả năng cao về bệnh lý thận.
Hiệp hội Tiết niệu thai nhi (SFU)
SFU đã xây dựng các tiêu chí chẩn đoán và phân loại bệnh dựa trên mức độ giãn nở vùng chậu, số lượng đài thận nhìn thấy và mức độ nghiêm trọng của teo nhu mô.
- Độ 0: Khám bình thường, không có sự giãn nở của khung thận
- Độ 1: Khung chậu thận giãn nở nhẹ
- Độ 2: Độ giãn vừa phải của khung thận bao gồm một vài đài thận
- Độ 3: Độ giãn của khung thận với hình ảnh của tất cả các đài thận bị giãn đồng đều và nhu mô thận bình thường
- Độ 4: tương tự độ 3 và nhu mô mỏng
Hệ thống phân loại giãn nở đường tiết niệu (UTD)
Một hội đồng đa ngành bao gồm các bác sĩ X quang, bác sĩ thận và bác sĩ tiết niệu đã đề xuất một hệ thống phân loại áp dụng cho UTD trình bày trước hoặc sau sinh. Nó dựa trên sáu kết quả siêu âm (RPD trước và sau, giãn niệu quản, độ dày nhu mô thận, xuất hiện nhu mô thận, bất thường bàng quang và bất thường tiết niệu.
Nguyên nhân thận ứ nước ở thai nhi
Trong một phân tích tổng hợp của 1678 trẻ được chẩn đoán mắc bệnh thì đánh giá sau sinh đã xác định bất thường bẩm sinh của thận và đường tiết niệu là nguyên nhân cơ bản khiến thai nhi bị thận ứ nước.
Triệu chứng
Khó có thể nhận biết các biểu hiện triệu chứng ra bên ngoài cho người mẹ cảm nhận được rằng thai nhi bị thận ứ nước. Khi em bé được sinh ra, bác sĩ nhi khoa có thể cảm thấy sưng ở vùng thận (dưới góc xương sườn ở lưng hoặc sâu ở giữa bụng). Ngoài ra giảm lưu lượng nước tiểu sau khi sinh, sưng xảy ra sau đó ở vùng thận hoặc nhiễm trùng tiết niệu là những triệu chứng khác của tình trạng này
Thận ứ nước ở thai nhi có nguy hiểm không
Sự tắc nghẽn gây áp lực khiến thận to lên. Mức độ nghiêm trọng của bệnh phụ thuộc vào mức độ sưng và tắc nghẽn. Nếu không được điều chỉnh sớm nó có thể khiến thận mất khả năng tái tạo nước tiểu vì vậy đây là tình trạng cần được quan tâm và theo dõi sát sao.
Điều trị như thế nào
Việc điều trị thận ứ nước ở thai nhi thường được hoãn lại cho đến khi em bé được sinh ra. Chỉ trong trường hợp nghiêm trọng nhất (mất chức năng thận được dự kiến nếu không được điều trị để sinh) mới cần phẫu thuật trong tử cung.
Bác sĩ sẽ đặt ống dẫn lưu qua lưng em bé vào thận để thoát nước tiểu ra ngoài, giảm áp lực trong thận. Thao tác này được thực hiện bằng thiết bị nội soi đưa qua bụng mẹ vào tử cung. Vì có nhiều rủi ro nên phương pháp này chỉ sử dụng cho những trường hợp thận ứ nước nặng nhất, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thai nhi
Các trường hợp khác được điều trị sau sinh, thận thường hồi phục tốt và không có vấn đề gì ảnh hưởng đến sức khỏe về sau này. Sau khi phẫu thuật, trẻ sẽ ăn ngon miệng hơn, tăng cân đều.